Bộ LĐ-TB&XH đang lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Thông tư quy định Danh mục vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn làm căn cứ xác định trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với quy định.
Danh mục vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn theo quy định tại Khoản 3, Điều 169 của Bộ luật Lao động và Điều 5 Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu. Đối tượng áp dụng là NLĐ và người SDLĐ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3, Điều 2 của Bộ luật Lao động; cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến BHXH.
NLĐ trồng rừng tại huyện Sìn Hồ (Lai Châu)
Theo dự thảo, Danh mục vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn gồm 753 xã thuộc 104 huyện ở 23 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Bình Phước, Kiên Giang.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế-xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khi có đề nghị sửa đổi, bổ sung Danh mục vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn, thì gửi công văn về Bộ LĐ-TB&XH.
Vụ BHXH (Bộ LĐ-TB&XH) có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo Bộ LĐ-TB&XH các đề xuất, sửa đổi, bổ sung Danh mục vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn theo quy định.
Theo Nghị định số 135/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành, NLĐ có đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021, có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Vũ Thu